- Thanh Tịnh (1911 – 1988) tên khai sinh là Trần Văn Ninh, quê ở xóm Gia Lạc, ven sông Hương, ngoại ô thành phố Huế.
III. Dàn ý phân tích bài thơ Nhớ rừng
- Đề tài yêu nước luôn là một đề tài lớn, xuyên suốt trong văn học Việt Nam
- Đối với các nhà thơ Mới, họ thường gửi gắm nỗi niềm thầm kín trong thơ của mình và Thế Lữ cũng vậy, ông gửi gắm nỗi lòng yêu nước thông qua “Nhớ rừng”
1. (Đoạn 1+4): Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú
- Hoàn cảnh bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một thứ đồ chơi
- Tâm trạng căm hờn, phẫn uất tạo thành một khối âm thầm nhưng dữ dội như muốn nghiền nát, nghiền tan
- “Ta nằm dài” – cách xưng hô đầy kiêu hãnh của vị chúa tể ⇒ Sự ngao ngán cảnh tượng cứ chầm chậm trôi, nằm buông xuôi bất lực
- “Khinh lũ người kia”: Sự khinh thường, thương lại cho những kẻ (Gấu, báo) tầm thường nhỏ bé, dở hơi, vô tư trong môi trường tù túng
⇒ Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, giọng thơ u uất diễn tả tâm trạng căm hờn, uất ức, ngao ngán
⇒ Tâm trạng của con hổ cũng giống tâm trạng của người dân mất nước, Căm hờn và phẫn uất trong cảnh đời tối tăm.
- Cảnh tượng vẫn không thay đổi, đơn điệu, nhàm chán do bàn tay con người sửa sang ⇒ tầm thường giả dối
⇒ Cảnh tù túng đáng chán, đáng ghét
⇒ Cảnh vườn bách thú là thực tại của xã hội đương thời, thái độ của con hổ chính là thái độ cú người dân đối với xã hội đó
2. (Đoạn 2+3): Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ
- Cảnh núi rừng đầy hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ nghiêm thâm
- Những tiếng “gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi” ⇒ Sự hoang dã của chốn thảo hoa không tên không tuổi
⇒ Những từ ngữ được chọn lọc tinh tế nhằm diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn lao mạnh mẽ, bí ẩn thiếng liêng
- Bước chân dõng dạc đường hoàng ⇒ vẻ oai phong đầy sức sống
⇒ Vẻ oai phong của con hổ khiến tất cả đều phải im hơi, diễn tả vẻ uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại vừa uyển chuyển của vị chúa sơn lâm
- “Nào đâu ... ánh trăng tan”⇒ Cảnh đẹp diễm lệ khi con hổ đứng uống ánh trăng thật lãng mạn
- “Đâu những ngày ...ta đổi mới” ⇒ Cảnh mưa rung chuyển đại ngàn, hổ lãng mạn ngắm giang sơn đổi mới.
- “Đâu những bình minh...tưng bừng”⇒ cảnh chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.
- Cảnh tượng cuối cùng cho thấy hổ là loài mãnh thú đợi màn đêm buông xuống nó sẽ là chúa tể muôn loài
⇒ Một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy, cho thấy những cảnh thiên nhiên hoang vắng đẹp rợn ngợp và con hổ với tư thế và tầm vóc uy nghi, hoành tráng
3. (Đoạn 5): Niềm khao khát tự do mãnh liệt
- Sử dụng câu cảm thán liên tiếp⇒ lời kêu gọi thiết tha ⇒ khát vọng tự do mãnh liệt nhưng bất lực
⇒ Nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt
⇒ Tâm sự của con hổ chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ những năm tháng tự do oanh liệt với những chiế thắng vẻ vang trong lịch sử
- Khái quát nội dung và nghệ thuật chủ đạo làm nên thành công của tác phẩm
- Liên hệ bài học yêu nước trong thời kì hiện nay
II. Đôi nét về bài thơ Nhớ rừng
- Bài thơ được sáng tác vào năm 1934, sau được in trong tập Mấy vần thơ- 1935
- Đoạn 1 + 4: Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú
- Đoạn 2 + 3: Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ
- Đoạn 5: Niềm khát khao tự do mãnh liệt
- Bài thơ mượn lời con hổ nhớ rừng để thể hiện sự u uất của lớp những người thanh niên trí thức yêu nước, đồng thời thức tỉnh ý thức cá nhân. Hình tượng con hổ cảm thấy bất hòa sâu sắc với cảnh ngột ngạt tù túng, khao khát tự do cũng đồng thời là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước bấy giờ.
- Hình ảnh mang tính chất biểu tượng, giàu chất tạo hình
- Ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu tính biểu cảm.
I. Đôi nét về tác giả Vũ Đình Liên
- Quê quán: Quê gốc là ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội
- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới.
+ Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học.
- Phong cách sáng tác: Thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài vọng.
- Tác phẩm tiêu biểu: Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc…
- Từ đầu thế kỉ XX, nền văn Hán học và chữ Nho ngày càng suy vi trong đời sống văn hóa Việt Nam, khi mà Tây học du nhập vào Việt Nam, có lẽ vì đó mà hình ảnh những ông đồ đã bị xã hội bỏ quên và dần vắng bóng. Vũ Đình Liên đã viết bài thơ Ông đồ thể hiện niềm ngậm ngùi, day dứt về cảnh cũ, người xưa.
- Phần 1 (Hai khổ thơ đầu): Hình ảnh ông đồ thời Nho học còn thịnh hành, thịnh thế.
- Phần 2 (Hai khổ tiếp theo): Hình ảnh ông đồ khi Nho học suy vi (lụi tàn).
- Phần 3 (Còn lại): Tâm tư thầm kín, niềm tiếc thương tác giả gửi gắm.
- Tác phẩm khắc họa thành công hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, đồng thời gửi gắm niềm thương cảm chân thành của nhà thơ trước một lớp người dần đi vào quá khứ, khơi gợi được niềm xúc động tự vấn của nhiều độc giả.
- Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn gồm nhiều khổ
- Kết cấu đối lập đầu cuối tương ứng, chặt chẽ.
- Ngôn từ trong sáng bình dị, truyền cảm.
III. Dàn ý phân tích bài thơ Ông Đồ
- Khái quát về tác giả Vũ Đình Liên, một nhà thơ nổi bật với thiên hướng văn chương mang nặng nỗi tiếc thương và sự hoài niệm quá khứ.
- Giới thiệu bài thơ Ông đồ: Một trong những bài thơ bình dị mà cảm động, nhìn vào đó, mỗi người sẽ có cảm giác sám hối...với lớp người đang đi về cõi chết – ông đồ.
1. Hình ảnh ông đồ thời Nho học thịnh hành
- Thời gian: Mùa xuân với hoa đào nở.
- Hành động: Bày mực tàu, giấy đỏ – công cụ chủ yếu của các nhà nho.
- Địa điểm: Bên phố đông người ⇒ Sự đông vui, náo nhiệt lúc xuân về.
⇒ Hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi dịp tết đến xuân về thưở xưa.
- Bao nhiêu người thuê viết....khen tài: Sự thịnh thế của Hán học, các nhà Nho khẳng định vị trí của mình trong lòng người, đó là những con người được ngưỡng mộ vì tài năng, học vấn.
⇒ Góp phần không nhỏ trong việc gợi không khí náo nhiệt truyền thống, nét văn hóa không thể bỏ qua của mùa xuân trong tâm thức cổ truyền của dân tộc.
⇒ Nhịp thơ nhanh: Giữa không khí náo nức, ông đồ như một người nghệ sĩ, mang hết tài năng của mình hiến cho cuộc đời.
2. Hình ảnh ông đồ khi Nho học lụi tàn
- Nhưng mỗi năm mỗi vắng: từ nhưng tạo bước ngoặt trong cảm xúc người đọc, sự suy vi ngày càng rõ nét, người ta có thể cảm nhận một cách rõ ràng, day dứt nhất.
- Người thuê viết nay đâu?: câu hỏi thời thế, cũng là câu hỏi tự vấn.
⇒ Sự đối lập của khung cảnh với 2 khổ đầu: Nỗi niềm day dứt, vẫn ông đồ xưa, vẫn tài năng ấy xuất hiện nhưng không cần ai thuê viết, ngợi khen.
- Giấy đỏ ...nghiên sầu: Hình ảnh nhân hoá, giấy bẽ bàng sầu tủi, mực buồn đọng trong nghiên hay chính tâm tình của người nghệ sĩ buồn đọng, không thể tan biến được.
- Lá bàng...mưa bị bay: Tả cảnh ngụ tình – nỗi lòng của ông đồ. Đây là hai câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Lá vàng rơi gợi sự cô đơn, tàn tạ, buồn bã, mưa bụi bay gợi sự ảm đạm, lạnh lẽo ⇒ Tâm trạng con người u buồn, cô đơn, tủi phận.
- Thời gian: Mùa xuân với hoa đào nở (lại: sự lặp lại tuần hoàn của cảnh thiên nhiên).
- Hình ảnh: Không thấy – phủ nhận sự có mặt của một người đã từng trở thành niềm ngưỡng vọng.
⇒ Kết cấu đầu cuối tương ứng làm nổi bật chủ đề bài thơ.
- Những người muôn năm cũ...bây giờ?: Câu hỏi đặt ra dường như không phải để tìm một câu trả lời, đó như một niềm than thân, thương phận mình.
⇒ Câu hỏi tu từ nhằm bộc lộ niềm tiếc thương, day dứt hết sức chân thành của tác giả trước sự suy vi của Nho học đương thời.
- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ: Khắc họa thành công hình ảnh ông đồ và câu chuyện về cuộc đời của người nghệ sị Nho học với kết cấu chặt chẽ, ngôn từ gợi cảm...
- Liên hệ bài học hiện nay: Giữ gìn những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống.
Tác giả tác phẩm: Tôi đi học - Ngữ văn 8
- Thanh Tịnh (1911-1988), tên khai sinh là Trần Văn Ninh sau đổi thành Trần Thanh Tịnh.
- Quê ở Gia Lạc, ven sông Hương, ngoại ô thành phố Huế.
- Là nhà giáo, nhà văn, nhà thơ.
- Sáng tác của ông toát lên vẻ đẹp đằm thắm, tình cảm êm dịu, trong trẻo.
II. Tìm hiểu tác phẩm Tôi đi học
Tôi đi học thuộc thể loại truyện ngắn.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Văn bản Tôi đi học là truyện ngắn xuất sắc của Thanh Tịnh, in trong tập “Quê mẹ” xuất bản năm 1941.
Văn bản Tôi đi học có phương thức biểu đạt là tự sự, miêu tả, biểu cảm. PTBĐ chính là tự sự.
Văn bản Tôi đi học được kể theo ngôi thứ nhất. Người kể chuyện xưng tôi.
Hằng năm cứ vào cuối thu, khung cảnh thiên nhiên lại làm cho tác giả nhớ đến những kỉ niệm về ngày đầu tiên đi học. Nhân vật tôi được mẹ đưa đến trường trong lòng tràn ngập cảm giác mới lạ: Hôm nay tôi đi. Cậu tự nhiên thấy muốn tự mình cầm bút thước, thấy những trò quậy phá rong ruổi với đám bạn đã xa tít tắt. Khi tới trường, quan sát những học sinh cậu thấy họ như những con chim non còn bỡ ngỡ trong những cử chỉ hành động gần như trở nên thừa thãi. Khi thầy Đốc trường Mĩ Lí điểm danh cho học sinh xếp hàng vào lớp, ai cũng hồi hộp, lo âu, không biết phải làm gì nhưng sau câu nói của thầy mọi chuyện đều ổn. Lớp học bắt đầu với dòng chữ đầu tiên thầy viết lên bảng đó là bài tập viết: Tôi đi học!
Tôi đi học có bố cục gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu → ngang trên ngọn núi: Tâm trạng của nhân vật “tôi” trên đường tới trường.
- Phần 2: Tiếp → được nghỉ cả ngày: Cảm nhận của nhân vật “tôi” lúc ở sân trường.
- Phần 3: Còn lại: Cảm nhận của nhân vật “tôi” trong lớp học lần đầu tiên.
- Truyện Tôi đi học kể lại kỷ niệm trong sáng của tuổi học trò trong ngày tựu trường đầu tiên hết sức chân thực, tinh tế qua dòng hồi ức của nhà văn.
- Bố cục theo dòng hồi tưởng, cảm nghĩ của nhân vật tôi theo trình tự thời gian buổi tựu trường.
- Đan xen yếu tố tự sự, miêu tả và biểu cảm.
- Nghệ thuật so sánh tạo hiệu quả diễn đạt cao, kết hợp các từ láy, tính từ, động từ giàu hình ảnh và sinh động.
- Ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, giàu chất thơ, nhẹ nhàng phù hợp với tâm trạng ngây thơ, rụt rè của những đứa trẻ trong buổi tựu trường đầu tiên.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Tôi đi học
1. Cảm nhận của “tôi” trên con đường cùng mẹ tới trường
+ Lá rụng nhiều, những đám mây bàng bạc.
+ Mấy em nhỏ rụt rè cùng mẹ tới trường.
- Tâm trạng: náo nức, mơn man, tưng bừng, rộn rã → Từ láy: tăng giá trị biểu cảm, diễn tả cảm xúc đầy trong sáng của nhân vật tôi.
- Cảnh vật, con đường rất quen nhưng lần này tự nhiên thấy lạ
- Tự cảm thấy có sự thay đổi lớn trong lòng, thấy mình như lớn hơn, nhận thức nghiêm túc hơn.
- Cảm thấy trang trọng đứng đắn hơn trong bộ quần áo mới: ghì chặt sách vở, tự mình cầm bút, thước
→ Từ ngữ gợi tả, lời văn đậm chất thơ, hình ảnh so sánh thơ mộng
→ Tâm trạng háo hức, hăm hở của “tôi” trong buổi tựu trường đầu tiên.
2. Cảm nhận của nhân vật “tôi” khi ở sân trường
- Sân trường: dày đặc những người, quần áo cũng sạch sẽ, gương mặt vui tươi sáng sủa ... → gợi không khí vui vẻ, ngôi trường trang nghiêm.
- Cảm giác: lo sợ vẩn vơ, bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, thầm mong được như những người học trò cũ”.
→ Ngại ngùng, bẽn lẽn, lo sợ của trẻ thơ trước một thế giới rộng lớn - thế giới của tri thức.
- Tim như ngừng đập, giật mình lúng túng, hồi hộp, lo sợ đứng nép bên mẹ.
- Cảm thấy chơ vơ, lo sợ khi sắp rời bàn tay mẹ → nức nở khóc.
→ Từng cung bậc cảm xúc, với nhiều trạng thái đối lập: cảm xúc hồn nhiên, trong sáng, rất đáng nhớ đáng yêu của tuổi thơ.
3. Cảm nhận của nhân vật “tôi” khi ngồi trong lớp học
+ Thấy quyến luyến với bạn mới.
- Ngoài cửa sổ: Chim liệng, hót, bay...kỉ niệm lại ùa về.
→ Cảm giác trong sáng, đáng nhớ, đáng trân trọng: vừa xa lạ, vừa gần gũi, vừa ngỡ ngàng, vừa tự tin
→ Dấu hiệu sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm
* Cảm nhận về thái độ của người lớn
- Phụ huynh: chuẩn bị ân cần, chu đáo, lo lắng, hồi hộp cùng các em.
- Thầy giáo: vui vẻ, đầy tình yêu thương
→ Thể hiện rõ trách nhiệm, tấm lòng của gia đình, nhà trường đối với thế hệ trẻ, đồng thời tạo môi trường giáo dục thân thiện, là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn các em.
Xem thêm các tác giả - tác phẩm Ngữ Văn 8 sách Cánh diều hay, chi tiết khác:
Tác giả tác phẩm: Gió lạnh đầu mùa
Tác giả tác phẩm: Người mẹ vườn cau
Tác giả tác phẩm: Nếu mai em về Chiêm Hóa
Tác giả tác phẩm: Đường về quê mẹ
(Báo Quảng Ngãi)- Trong cuốn sách “Văn học Hán Nôm Nam Trung Bộ diện mạo và đặc điểm” do TS.Võ Minh Hải làm chủ biên cùng với các cộng sự thuộc Trường Đại học Quy Nhơn nghiên cứu hơn mười năm qua có nội dung đề cập đến dòng chảy văn học Hán Nôm miền Ấn - Trà với nhiều tác giả tiêu biểu.
Sách “Văn học Hán Nôm Nam Trung Bộ diện mạo và đặc điểm” do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 2022. Cuốn sách dày hơn 300 trang, gồm 7 chương. Ngoài phần dẫn nhập, cơ sở hình thành và lược sử nghiên cứu văn học Hán Nôm Nam Trung Bộ cũng như tiến trình lịch sử vận động của vùng văn học, các tác giả đi sâu vào nghiên cứu diện mạo, đặc điểm của những tác giả tiêu biểu ở vùng Nam Trung Bộ. Đồng thời, công trình bước đầu nhận diện một số khuynh hướng sáng tác chính, chủ đề, hình tượng con người, đặc điểm thể loại và ngôn ngữ của các tác phẩm Hán Nôm thuộc vùng văn học Nam Trung Bộ. Từ đó, đưa ra những kết luận về vị trí và đóng góp của Văn học Hán Nôm Nam Trung Bộ trong tổng thể nền văn học cổ điển Việt Nam.
Được xem là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, văn học Hán Nôm Quảng Ngãi trong giai đoạn này xuất hiện nhiều tác giả tiêu biểu. Trong tập sách này, các nhà nghiên cứu đã nhắc đến một số tác giả ở Quảng Ngãi như: Huỳnh Công Khế (nửa sau thế kỷ XV), Bùi Tá Hán (1496 - 1568), Mai Đình Dõng (? - 1602), Trần Cẩm (1545 - 1640), Gioan Thanh Minh (1588 - 1663), Nguyễn Cư Trinh (1716 - 1767), Trần Công Hiến (? - 1817), Trương Đăng Quế (1793 - 1865), Nguyễn Tự Tân (1848 - 1885), Lê Trung Đình (1867 - 1885)...
Ở chương 4, viết về các tác giả tiêu biểu, nhóm nghiên cứu đã đi sâu khảo sát, nhận diện về tác giả Trương Đăng Quế, một trong những danh gia, trọng thần Triều Nguyễn. Trương Đăng Quế tự là Diên Phương, hiệu Đoan Trai, biệt hiệu Quảng Khê Tẩu sinh quán tại làng Mỹ Khê (nay là xã Tịnh Khê, TP.Quảng Ngãi). Ông là một trọng thần, xuất thân khoa bảng điển hình. Về văn học, ông đã để lại một sự nghiệp lừng lẫy. Nhận định về vấn đề này, nhóm tác giả đã đưa ra quan điểm khảo cứu và nhận định: “Ông là vị Tổng tài đầu tiên của Quốc sử quán, mở đầu cho sự nghiệp viết sử Triều Nguyễn. Trương Đăng Quế đã chủ biên các tác phẩm đồ sộ và có ảnh hưởng đến hậu thế như: Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam thực lục chính biên (Chép đến Thiệu Trị)...”. Thơ văn của Trương Đăng Quế với đầy đủ những cung bậc, sắc màu và sự trải nghiệm qua nhiều đoạn đường ông từng trải. Trương Đăng Quế được các nhà nghiên cứu nhận diện như bậc lương thần, thi sĩ.
Công trình cũng đã đi sâu khảo cứu về một số tác giả tiêu biểu như Nguyễn Cư Trinh, Huỳnh Thúc Kháng. Ở phần này, Huỳnh Thúc Kháng được đánh giá là “một nho sĩ, nhà báo cách mạng”, và cốt cách, hạo khí của Cụ Huỳnh được các nhà nghiên cứu nhấn mạnh: “Là người con ưu tú của quê hương Nam - Ngãi, ngay từ nhỏ Huỳnh Thúc Kháng đã ham học, thông hiểu học thuyết của nho gia. Tinh thần Khắc kỷ phục lễ đã được ông tiếp thu và thực hành rất chuyên tâm”. Trong khuôn khổ văn thơ Hán Nôm, Huỳnh Thúc Kháng được xem “một tác giả Hán Nôm quan trọng của khu vực Nam Trung Bộ”. Về sự nghiệp sáng tác, “ông có một số tác phẩm nổi tiếng ở giai đoạn này như: "Huỳnh Thúc Kháng niên phổ", "Thi tù tùng thoại". Trong đó, “Thi tù tùng thoại" là tập thơ tù đầu tiên của văn học Việt Nam.
Là một công trình nghiên cứu mang tính chuyên khảo, “Văn học Hán Nôm Nam Trung Bộ diện mạo và đặc điểm” đã bước đầu tìm tòi và xác định được vị trí và những đóng góp của văn học Hán Nôm Nam Trung Bộ trong tiến trình phát triển văn học, đặc biệt là văn học cổ điển ở góc nhìn địa - văn hóa. Đây được xem là bộ phận quan trọng của văn học cổ điển dân tộc. Tiến sĩ Võ Minh Hải chia sẻ, đây là công trình tổng quát về một vùng văn học quan trọng nhưng chưa được đánh giá đúng tiềm lực, nhất là ở phương diện sáng tác Hán Nôm. Đồng thời, chúng tôi muốn đồng hành cùng thầy cô giáo ở các trường phổ thông trong việc giới thiệu văn học Nam Trung Bộ đến học sinh trong khu vực này trong chương trình giáo dục địa phương. Hy vọng tập chuyên khảo sẽ cung cấp cho giáo viên, học sinh trên vùng đất Nam Trung Bộ những tư liệu văn học cần thiết.